Thứ Hai, 19 tháng 11, 2012

PHIM "ĐỪNG KHÓC THƯƠNG TÔI-SUDAN"




SC MNH CAĐC TIN

(xem phim truyện "Xin đừng khóc thương tôi Sudan" đầy xúc động về cuộc đời của Linh Mục Gioan Lee Tae Suk phía dưới)

            Trong năm Đức Tin, Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta hãy tham gia vào công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu cho mọi người qua chính đời sống chứng nhân của mình. Đó là một lời mời gọi đầy ý nghĩa và thiết thực nhất để Lời Chúa được rao truyền đến cho tất cả mọi người trên tòan thế giới. Trong tâm tình đó, tôi muốn chia sẻ về đời sống chứng nhân Tin Mừng qua công việc truyền giáo của linh mục Gioan Lee Tae Suk tại Nam Sudan- Phi Châu (1962-2010). Tìm hiểu về cuộc đời truyền giáo của cha và những việc làm nhỏ bé nhưng chứa đựng TÌNH YÊU phi thường của cha để hiểu rõ hơn rằng: Chính Thiên Chúa- Nguồn sức mạnh của Đức Tin và Tình Yêu đã giúp cha sống trọn vẹn một cuộc đời chan chứa thương yêu, chia sẻ cho đến tận cùng và sẵn sàng từ bỏ tất cả để theo Chúa. Và cũng chính Đức Tin đã ban nguồn sức mạnh phi thường cho cha để cha đến và sống giữa những người dân nghèo, đau khổ tại Nam Sudan và trở thành một nguồn hy vọng, một ngọn lửa bừng sáng trong lòng những người dân tại Nam Sudan- Phi Châu. Cuộc đời của cha đẹp như những lòai hoa biết nói để tỏa hương sắc của Tình yêu đến cho tất cả mọi người chung quanh.

            Cha Gioan Lee là linh mục dòng Salêriêng Don Bosco. Tốt nghiệp bác sĩ y khoa nhưng cha đã bỏ tất cả công danh sự nghiệp sau lưng, và cha đã đáp lại tiếng gọi mãnh liệt của Thiên Chúa để trở thành một linh mục truyền giáo trong dòng Salêriêng Don Bosco. Ngay sau khi được truyền chức linh mục tại Tòa Thánh Vatican, cha đã tình nguyện đến truyền giáo tại miền Nam Sudan thuộc Phi Châu. Cha đã từ bỏ tất cả công danh, sự nghiệp của người bác sĩ để trở thành linh mục. Và hơn thế nữa, cha còn muốn trở thành người mục tử nhân lành sống giữa đoàn chiên nghèo khổ để chăn dắt họ. Vì thế nên cha đã tình nguyện đến sống tại một xứ sở nghèo đói nhất thế giới, giữa những người đói khổ và bệnh tật trong làng Tonj thuộc miền Nam Sudan- Phi Châu trong suốt 8 năm trước khi cha qua đời vị căn bệnh ung thư ruột già. Cuốn phim tài liệu: “Don’t Cry for Me Sudan” năm 2010 (“Đừng Khóc Thương Tôi - Sudan”) đã chia sẻ về cuộc đời truyền giáo của linh mục Gioan Lee Tae Suk và là cuốn phim sẽ tham dự Đại hội điện ảnh lần thứ 61 tại Bá Linh vào năm tới- 2013.

Bấm vào Xem phim trên Youtube

Xem phim Don't cry for me Sudan (Xin đừng khóc thương tôi Sudan) phụ đề tiếng Việt do hội truyền giáo Phanxicô Xaviê thực hiện. Một phim đầy cảm động và chan chứa yêu thương. A must see...

            Sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó gồm 10 anh chị em, cha Gioan Lee Tae Suk là người con thứ chin. Năm cha lên 9 tuổi, người bố qua đời để lại gánh nặng gia đình trên đôi vai người mẹ. Người mẹ đã phải tần tảo làm nghề may vá để nuôi nấng đàn con 10 anh chị em. Ngay từ khi còn bé, cha Gioan Lee đã phải sống trong cảnh nghèo khó. Sân chơi của cha chính là ngôi nhà thờ gần nhà. Ngay khi còn học bậc tiểu học, cha đã tỏ ra yêu thương các người nghèo khổ và có ý tưởng thành lập một cô nhi viện cho các trẻ em mồ côi. Một ngày nọ, khi chứng kiến cảnh một người ăn xin nghèo khó, rách rưới mà cha (lúc đó là một cậu bé) không có gì để giúp đỡ người ăn xin này. Cha đã chạy về nhà và hỏi mượn người chị 1 cây kim và sợi chỉ để khâu lại chiếc quần rách rưới cho người ăn xin. Sống trong tuổi thơ nghèo túng, có những ngày cậu bé Gioan Lee Tae Suk đã phải ngồi chờ mẹ về ở ngoài đường, trong con hẻm gần nhà… Do đó, tuổi thơ của cha đã sớm cảm thông với những nỗi bất hạnh của con người. Khi lên bậc trung học, cha đã tự học đàn Guitar và chơi dương cầm… Năng khiếu âm nhạc đến với cha một cách tự nhiên và dễ dàng. Có lẽ đó là nguồn cảm hứng giúp cha giải bày những xúc động ẩn chứa trong tâm hồn khi chứng kiến những cảnh nghèo đói, bất công và bệnh tật của những người nghèo khổ trong xã hội. Cha đã tự sáng tác ra những bản nhạc lúc còn học ở trung học. Những bản nhạc này như một cầu nối giúp cha đến gần với Thiên Chúa. Cha đã chia sẻ những cảm nhận của mình qua âm nhạc. Âm nhạc đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời của cha, giúp cha sống đạo hạnh hơn ngay khi còn là một học sinh bậc trung học. Và sau này, trong cuộc đời truyền giáo của mình, âm nhạc đã giúp cha đến được với những đứa trẻ quen sống trong cảnh bạo lực tại Nam Sudan và từ đó, âm nhạc đã giúp cha chuyển hướng tâm hồn chúng thành những đứa trẻ đầy năng khiếu sáng tạo trong âm nhạc.

            Là một trong những đứa trẻ rất nghèo, nhưng cha Gioan Lee Tae Suk đã cố gắng học và thi đậu vào trường y khoa – một nơi mà ngay cả những đứa trẻ nhà giàu được cho ăn học tử tế - cũng rất khó được chọn vào. Và cha đã trở thành một bác sĩ y khoa với con đường giàu sang và danh vọng mở rộng trước mặt; được trở thành một người giàu sang, quyền quí và được xếp vào bậc thượng lưu trong xã hội. Viễn ảnh tương lai thật huy hoàng ngay trước mặt….Nhưng sau những năm tháng phục vụ như một bác sĩ y khoa trong quân đội, cha đã cảm nhận được tiếng gọi mãnh liệt của Thiên Chúa. Và cha đã quyết định từ bỏ tất cả con đường sự nghiệp đang mở rộng thênh thang trước mắt để bước vào dòng tu Salêriêng- Don Bosco và trở thành linh mục - người của Chúa. Đứng trước sự chọn lựa của cha, người mẹ đã đau đớn vì phải hy sinh trong suốt bao năm tháng nuôi con trưởng thành; nay lại nhìn thấy viễn cảnh của cuộc sống khó nghèo do bởi sự chọn lựa  đó của con mình. Người mẹ đã không đành lòng mất đi người con yêu dấu sau những tháng ngày vất vả nuôi nấng con nên người. Nhưng rồi bà cũng phải nhận ra Ơn gọi mãnh liệt mà Thiên Chúa đã gieo vào tâm hồn cậu bé Gioan Lee Tae Suk ngay những ngày còn nhỏ. Cha đã biết ơn người mẹ đã hy sinh trọn vẹn cuộc sống để lo cho đàn con. Và giờ đây, lại một lần nữa, người mẹ đó đã hy sinh những danh vọng lẽ ra sẽ nhận được nếu người con tiếp tục con đường phục vụ như một người bác sĩ tại nơi chính quê nhà của ông – Hàn quốc. Người mẹ cuối cùng đã nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa đối với con mình còn cao cả hơn tất cả những gì mà thế gian mang lại. Thế là Gioan Lee Tae Suk bước vào dòng tu Salêriêng- Don Bosco.

            Vào những năm tháng còn ở chủng viện, thầy Gioan Lee Tae Suk đã có lần được đến thăm miền Nam Sudan- Phi Châu. Ở nơi đó đã xảy ra cuộc chiến tranh Nam- Bắc vào năm 1983, và cuộc chiến đó đã tàn phá khủng khiếp đất nước này. Cuộc chiến đã làm hơn hai triệu người bị chết và đã để lại bao nhiêu tang tóc cho những người dân quê nghèo khổ. Những người còn sống sót sau chiến tranh thì lại bị chết vì bệnh tật và nghèo đói. Họ phải sống nơi một vùng đất mà nguồn nước uống bị ô nhiễm trầm trọng.

            Do đó, ngay sau buổi lễ truyền chức linh mục tại Vatican- Rome, cha Gioan Lee Tae Suk đã xin tình nguyện đến phục vụ tại miền Nam nước Sudan ở Phi Châu. Tại nơi đây, vào năm 2001, cha đã mở phòng khám bệnh đầu tiên tại Nam Sudan, và là người bác sĩ duy nhất tại đó. Mỗi ngày, cha khám và chữa trên 30 bệnh nhân. Có những bệnh nhân đã đi bộ hàng trăm Kilômét để đến với cha. Có cả những người phải đi bộ 2-3 ngày đường để đến được nơi phòng khám. Mỗi ngày đều có 30-40 người chờ đợi để được khám bệnh. Nhận thấy nhu cầu quá lớn của những người dân tại Nam Sudan, cha đã quyết định xây một bệnh viện bằng những viên gạch do chính tay cha và dân làng tự làm nên. Cha đã đặt mua xi măng từ Kenya và lấy cát từ dòng sông Tonj thuộc Nam Sudan. Dưới cái nóng trên 50 độ C, cha đã cùng làm việc với những người dân làng để đúc những viên gạch và dung chính những viên gạch đó để xây dựng thành một bệnh viện. Năm 2007, bệnh viện do cha Gioan Lee Tae Suk và dân làng xây được hình thành gồm 12 phòng. Nơi đây, cha đã chữa trị cho các bệnh nhân bị bệnh phổi, tiêu chảy, sốt rét, các phụ nữ mang thai, các trẻ em cần chủng ngừa dịch tả v.v…

            Cha không bao giờ từ chối bất kỳ một bệnh nhân nào đến với cha, ngay cả vào ban đêm khi cha đang yên ngủ sau một ngày làm việc mệt nhọc. Khi có những bệnh nhân đang trong tình trạng nguy kịch đến cầu cứu cha vào ban đêm, cha vẫn sẵn lòng giúp họ mà không một lời phàn nàn than trách. Các bệnh nhân vẫn liên tục kéo đến với hy vọng được cha chữa lành các vết thương cả thể xác lẫn tâm hồn. Với họ, cha là một người cha và là một thầy thuốc. Cha đã đến với họ bằng tất cả tình yêu thương mà họ chưa bao giờ được ban phát. Cha là hiện thân của Chúa Giêsu trong trái tim và tấm lòng của họ. Tại nơi này không có nguồn điện. Do đó, cha đã tự làm những tấm năng lượng mặt trời để tạo ra nguồn điện dùng để cung cấp điện năng cho các tủ lạnh để bảo quản các loại thuốc chủng ngừa cho trẻ em. Mỗi ngày thứ Tư trong tuần, cha lái xe đến 8 ngôi làng khác nhau để chữa bệnh cho những người phong cùi, mù lòa ... khi họ không thể đi xa được, mà chỉ có thể ngồi tại nhà của họ. Thậm chí, có những người không có ai chăm sóc thì bị chết trong nhà mà không ai hay biết. Cha luôn sẵn sàng giúp đỡ bất kỳ ai cần đến Ngài.

Năm 2005, khi hòa bình được tái lập giữa miền Nam và Bắc Sudan, bảo đảm sự an ninh khi di chuyển; thì đến năm 2006, cha bắt đầu chương trình thăm viếng các bệnh nhân bị phong cùi khi họ không thể bước chân ra khỏi nhà. Trước khi cha đến, họ đã chết mà cũng không biết chết vì bệnh gì?

            Cha đã thành lập một ngôi làng cho những người mắc bệnh phong ở và cấp thuốc để chữa trị và ngăn ngừa chứng bệnh lây lan. Cha là người duy nhất yêu thương họ, đến với họ và lắng nghe họ. Mỗi lần cha đến thăm họ, cha không bao giờ đi với hai bàn tay không. Cha luôn có quà cho tất cả mọi người, khi thì là những cái áo, khi thì là những đôi vớ, lúc thì là những cái quần, những đôi giày, những cái áo ấm v.v... Cha là người đã khâu những vết thương đầy máu mủ nơi chân tay những người bệnh phong và băng bó vết thương cho họ. Cha đã đo chân từng người và đặt làm những đôi giày cho họ mang để họ bớt đau đớn mỗi khi di chuyển. Không hề có một rào cản nào ngăn cách giữa cha và những người  mắc bệnh phong cùi này. Họ đã sống trong hạnh phúc vì đã được yêu thương mặc dù họ rất nghèo và bị xã hội bỏ rơi. Cha là một linh mục đầu tiên trong lịch sử Hàn Quốc đã từ bỏ đất nước của mình và sang phục vụ bên Phi Châu. Cha đã sống và đã hội nhập để trở thành một người dân làng Tonj.
            Trong cuốn tự truyện: “Các con là những người bạn của cha”, cha đã chia sẻ động lực thúc đẩy cha đến miền Nam Sudan là: Ngay khi còn nhỏ, cha đã cảm nhận được sự hy sinh của người mẹ nuôi nấng và lo lắng, chăm sóc cho đàn con 10 người. Lớn lên, cha nhìn thấy gương hy sinh phục vụ của các cha, các soeur nơi cha sinh trưởng; và nhất là của chính một người anh làm linh mục, và một người chị làm nữ tu. Đặc biệt hơn cả là sự hy sinh tận cùng của người mẹ khi chấp nhận cho cha từ bỏ con đường sự nghiệp của người bác sĩ để trở thành linh mục. Bà mẹ đã từ bỏ sự hưởng thụ giàu sang khi có con làm bác sĩ để sẵn sàng nâng đỡ cha khi Ngài quyết tâm đi theo lời mời gọi của Chúa. Chính những tấm gương sáng đó đã là những động cơ thúc đẩy cha lên đường đi đến Sudan- một nơi nghèo khổ nhất trên thế giới để phục vụ cho những người nghèo, bệnh tật và bất hạnh. Ở nơi đó, cha là người đã xây dựng một ngôi trường học đầu tiên từ cấp mẫu giáo đến cấp trung học. Các giáo sư được cha mời đến từ Keyna để dạy cho các em. Và chính cha cũng đã dùng thời gian eo hẹp của mình để dạy môn toán cho các em.

            Nhìn cảnh các trẻ em ngay từ nhỏ đã làm quen với súng đạn, cha quyết tâm phát triển năng khiếu âm nhạc nơi tâm hồn các em để thay những khẩu súng trong tay các em thành những chiếc kèn đồng. Cha đã dùng âm nhạc để xoa dịu những vết thương chiến tranh trong lòng các em. Thế là cha đã hy sinh những giờ ngủ để tập những nhạc cụ, tập thổi kèn trước rồi sau đó dạy cho các em học. Và cuối cùng, giấc mơ của cha đã thành hiện thực. Một đội kèn đầu tiên ở Nam Sudan đã được thành lập. Cha đã xin các ân nhân để gửi tặng những bộ đồng phục của ban kèn cho các em mặc. Cha nâng đỡ những đứa trẻ và phát triển tài năng về âm nhạc của chúng để chống lại bạo lực tại nơi đây. Khi tâm hồn những đứa trẻ bị tan vỡ do những vết thương chiến tranh tạo ra, qua âm nhạc, chúng sẽ tìm được niềm vui và hy vọng. Đây là một biến cố vô cùng trọng đại trong một đất nước bị tàn phá quá nhiều do bởi chiến tranh. Đối với những người dân tại Sudan thì có được một ban kèn là một sự việc ngoài trí tưởng tượng của họ, và là một biến cố gây kinh ngạc mãnh liệt cho họ. Vì từ đây, những đứa trẻ không còn cầm súng trên tay mà thay vào đó là những chiếc kèn mang lại những âm thanh của hòa bình, tình yêu và hy vọng….

Nhưng thật đau buồn thay, trong một chuyến nghỉ hè vào tháng 10/2008: Khi trở về Hàn Quốc, cha đã làm một cuộc xét nghiệm sức khỏe tổng quát theo lời khuyên của một bác sĩ, và cha đã phát hiện ra mình đang mang chứng bệnh ung thư ruột già ở giai đoạn cuối. Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, cha vẫn chiến đấu dũng cảm với cơn bệnh qua 14 lần chạy hóa trị (chemotherapy) để mong được trở về lại Sudan thăm các em. Cũng trong những ngày tháng chữa bệnh này, cha đã viết cuốn sách: “Các con là những người bạn của cha”. Và cuốn sách đã được phát hành vào tháng 05/2009. Một tháng trước khi về với Chúa, biết mình không thể trở lại Sudan được, cha đã mời hai em trong đội kèn đến thăm cha tại Hàn Quốc. Và tại đây, cha đã bảo trợ cho hai em đó được vào học đại học.

Cuối cùng, vào ngày 14/01/2010, cha đã ra đi về với Chúa khi đã sống trọn vẹn 48 năm cuộc đời tại dương thế với những ngày tháng phục vụ trọn vẹn cho những người đau khổ, bệnh tật, phong cùi, nghèo đói ... tại Sudan. Ngày 16/01/2010 là thánh lễ an táng cha tại nhà dòng Saleriêng – Don Bosco. Cha đã ra đi trong nụ cười, còn những người ở lại đã đưa tiễn cha trong những giọt nước mắt của đau đớn và tiếc thương. Mặc dù cha đã ra đi về với Chúa, nhưng Niềm Tin của cha đã biến thành hiện thực. Cha đã sống và đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời của cha cho những người đau khổ và bất hạnh.

            Tin cha qua đời bay đến Sudan và những người dân ở đây đã đau đớn và không thể chấp nhận một thực tại phũ phàng, quá nhiều mất mát cho họ. Họ khóc thương cha như khóc thương một người thân yêu duy nhất đã yêu thương họ, đã chăm sóc tận tình cho họ, đã chia sẻ và ủi an họ với một tình yêu đồng lọai mà họ chưa từng được biết đến. Có những người dân làng xa xôi đã đi bộ hơn 4 ngày trời để được đến tham dự nghi thức tiễn biệt cha lần cuối tại ngôi Thánh đường mà chính cha đã cùng với họ xây cất nên. Họ mang trên tay những tấm ảnh của cha như muốn níu kéo cha ở lại mãi với họ. Các em trong ban kèn đã diễn hành từ căn nhà thương- nơi cha xây dựng và chữa bệnh đến ngôi thánh đường- nơi cử hành nghi thức tiễn biệt người cha thân yêu của họ. Tất cả những người dân làng từ khắp nơi kéo về, có những người đã đi bộ hơn 400Km để đến tham dự nghi thức tiễn biệt cha lần cuối. Những dòng nước mắt khóc thương cho một người cha hiện thân của Tình Yêu và Hy Vọng; hiện thân của Chúa Giêsu trong tâm hồn họ. Chính cha là người đã xoa dịu và chữa lành bao vết thương nơi thể xác lẫn tâm hồn của những người dân đau khổ đang sống tại một nơi nghèo nhất thế giới văn minh này.

            Tại nơi đây, những người dân làng đơn sơ, chất phát đã khóc thương cha như khóc thương người cha tinh thần của họ. Trong tâm hồn và trong trái tim của họ đã không còn ranh giới giữa giàu sang và đói khổ, mà chỉ còn lại tình yêu và sự đau xót nhớ thương. Họ đau đớn vì đã mất đi một con người đã đến sống và ở giữa họ; đã yêu thương và trao tặng họ món quà vô giá của tình người. Họ đau đớn vì đã không còn một niềm an ủi và hy vọng giữa cảnh sống nơi một xã hội mà họ đang bị bỏ rơi một cách nghiệt ngã.

Cha Gioan Lee Tae Suk không chỉ là một người cha, một linh mục mà cha đã là TẤT CẢ của họ. Cha đã sống và đã rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu bằng chính cuộc đời của cha. Cha là hiện thân của Chúa Giêsu trong lòng những người dân làng Tonj tại Nam Sudan, nơi mà bản thân họ đang phải chịu đựng những tổn thương do bởi một xã hội đầy rẫy những bất công và một thế giới tràn ngập những đau khổ tạo ra… Cha đã gieo những hạt giống của Đức Tin và Tình Yêu trong tâm hồn những người dân đau khổ và bất hạnh này. Sự ra đi của cha ở độ tuổi 48 khi Ngài còn đang tha thiết muốn phục vụ và được phục vụ những người dân nghèo là một nỗi đau và là sự mất mát không thể bù đắp nơi tâm hồn của những người dân làng Tonj đầy bất hạnh này. Nhưng Niềm Tin mà cha đã gieo rắc và vun đắp trong trái tim và tâm hồn của các trẻ em, nơi các người già yếu, bệnh tật, phong cùi, mù lòa v.v… ; Niềm Tin đó vẫn sống mãi trong lòng họ… Vì trong một thế giới đầy đầy bất hạnh và bạo lực này, vẫn đang có những bàn tay và những tâm hồn của những người môn đệ theo chân Chúa, những ngừời đang hy sinh cả cuộc đời để sống cho Tình Yêu của Chúa, và mang Tình Yêu đó xoa dịu những vết đau và lau rửa những vết thương trong tâm hồn và nơi thể xác của bao người bất hạnh.

            Trong năm Đức Tin này, hy vọng mỗi người chúng ta cũng sẽ là những bàn tay nối dài của Thiên Chúa. Những bàn tay của những tâm hồn được lớn mạnh trong Đức Tin và được nuôi dưỡng trong Ân sủng để có thể sẵn sàng chia sẻ và làm chứng về Tình Yêu Thiên Chúa cho mọi người. Ước chi cuộc sống chứng nhân của cha Gioan Lee Tae Suk trong thời đại hôm nay luôn sống động trong lòng của tất cả mọi người chúng ta. Qua đó, mỗi người chúng ta cũng sẽ trở nên những người truyền giáo, rao giảng Tin Mừng của Chúa qua chính những việc làm bác ái và yêu thương, cùng với những đóng góp xây dựng một thế giới trong hòa bình qua việc chia sẻ, nâng đỡ, ủi an và yêu thương những người kém may mắn, bất hạnh hơn chúng ta.

            Xin thân ái kính chúc Cộng đòan dân Chúa sống năm Đức Tin tràn đầy Ân sủng và Tình Yêu của Thiên Chúa và qua Ơn lành từ mẫu của Mẹ Maria.

Orange, Ngày 16 Tháng 10 Năm 2012
Maria Trần Thị Lệ Xuân
Cộng Đòan Chúa Kitô Vua- Giáo xứ St. Columban

Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2012

NĂM ĐỨC TIN 2012-2013

1. GIỚI THIỆU NĂM ĐỨC TIN
2. Ý NGHĨA, MỤC ĐÍCH NĂM ĐỨC TIN
3. TÀI LIỆU VỀ NĂM ĐỨC TIN
4. LOGO NĂM ĐỨC TIN
5. NHẠC VÀ KINH NĂM ĐỨC TIN
6. ĐỨC THÁNH CHA KHAI MẠC NĂM ĐỨC TIN
7. ĐỨC THÁNH CHA BAN ƠN TOÀN XÁ NĂN ĐỨC TIN
8. 75 CÂU HỎI VỀ NĂM ĐỨC TIN
9. MÚA BÀI "LẠY CHÚA CON TIN"


ĐỨC THÁNH CHA BAN ƠN TOÀN XÁ NĂN ĐỨC TIN



Đức Thánh Cha ban ơn toàn xá cho các tín hữu trong Năm Đức Tin


VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 ban ơn toàn xá cho các tín hữu nhân dịp Năm Đức Tin từ ngày 11-10-2012 đến ngày 24-11-2013, theo những điều kiện được Tòa Ân Giải thông báo.

Trong Sắc lệnh ký ngày 14-9-2012 và được Phòng Báo Chí Tòa Thánh phổ biến hôm 5-10-2012, Tòa Ân Giải nhắc lại chủ đích của ĐTC khi ấn định Năm Đức Tin nhân dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2 là để ”mời gọi Dân Chúa và các GM toàn thế giới, hiệp với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô, tưởng niệm Hồng ân đức tin quí giá trong thời kỳ ân phúc Chúa ban cho chúng ta (Porta fidei, n. 8), để tất cả các tín hữu được cơ hội tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Phục Sinh.. tại các Nhà thờ chính tòa và các thánh đường trên toàn thế giới, tại tư gia và trong gia đình họ, để mỗi người mạnh mẽ cảm thấy nhu cầu am tường hơn và thông truyền cho các thế hệ tương lai đức tin ngàn đời.. Ngoài ra, Năm Đức Tin cũng có mục đích kêu gọi tất cả các tín hữu, riêng rẽ hoặc chung với cộng đoàn, làm chứng công khai về đức tin của mình trước mặt tha nhân trong những hoàn cảnh đặc thù của đời sống thường nhật”.

Sau khi nhắc lại giáo lý của Hội Thánh Công Giáo về ân xá, Sắc Lệnh khẳng định rằng Ơn toàn xá được ban cho các tín hữu để hỗ trợ họ về đàng thiêng liêng trong việc theo đuổi các mục đích nói trên: Giáo Hội dùng quyền quản lý ơn cứu chuộc do Chúa Kitô thực hiện, thông ban cho các tín hữu sự tham phần vào sự sung mãn ấy của Chúa trong cộng đồng hiệp thông của các thánh, cung cấp dồi dào cho họ các phương thế để đạt tới ơn cứu độ”.

Những trường hợp đưc ơn toàn xá

Sau lời dẫn nhập trên đây, Tòa Ân Giải tối cao cho biết trong trọn Năm Đức Tin (11/10/2012 - 24/11/2013), các tín hữu có thể được hưởng ơn toàn xá, tha các hình phạt tạm vì tội lỗi, nhờ lòng từ bi của Chúa, và có thể nhường các ơn này cho các linh hồn nơi luyện ngục, nếu họ thành tâm thống hối, xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha:

1. Mỗi khi họ tham dự ít là 3 bài giảng trong cuộc đại phúc hoặc ít là 3 bài học về các Văn kiện Công Đồng chung Vatican hay và về những khoản trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo, tại bất kỳ nhà thờ nào hoặc tại nơi thích hợp.

2. Mỗi khi họ hành hương tại một Vương Cung Thánh Đường Giáo Hoàng, một hang toại đạo Kitô, một Nhà thờ chính tòa, một nơi thánh do Bản quyền địa phương chỉ định cho Năm Đức Tin, ví dụ các Tiểu Vương cung thánh đường, các Đền Thánh dâng kính Đức Mẹ, các Tông Đồ và các Thánh Bổn mạng) và tham dự tại đó một lễ nghi thánh hoặc ít là dừng lại suy niệm một lúc và kết thúc bằng kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính dưới bất kỳ hình thức nào hợp pháp, kêu cầu Đức Trinh Nữ Maria, và các Thánh Tông Đồ hoặc Thánh Bổn mạng, tùy theo trường hợp.

3. Mỗi khi họ tham dự thánh lễ trọng thể hoặc Phụng vụ giờ kinh, kèm theo việc tuyên xưng đức tin, dưới bất kỳ hình thức nào hợp pháp, trong những ngày do Bản quyền địa phương ấn định cho Năm Đức Tin (ví dụ vào những lễ trọng kính Chúa, Đức Mẹ, lễ kính các Thánh Tông Đồ và Bổn mạng, lễ kính Tòa Thánh Phêrô) tại bất kỳ nơi thánh nào.

4. Vào một ngày tín hữu tùy ý chọn lựa, trong Năm Đức Tin, để kính viếng giếng rửa tội hoặc nơi khác, mà họ đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, và lập lại những lời hứa khi chịu phép rửa, theo bất kỳ hình thức nào hợp pháp. Các GM giáo phận, và các vị tương đương theo luật, nhân dịp buổi cử hành chính yếu, ví dụ ngày 24-11-2013, lễ Chúa Kitô Vua, kết thúc Năm Đức Tin, có thể ban Phép Lành Tòa Thánh với ơn Toàn Xá, cho tất cả các tín hữu thành tâm lãnh nhận Phép Lành này.

Tòa Ân Giải Tối Cao nói thêm rằng ”Những tín hữu thành tâm thống hối và không thể tham dự các lễ trọng vì lý do hệ trọng, như tất cả các nữ đan sĩ sống trong Đan viện kín vĩnh viễn, những người sống ẩn dật, các vị ẩn tu, các tù nhân, người già yếu, bệnh tật, cũng như những người phục vụ tại các nhà thương, bệnh xá, cũng được hưởng ơn Toàn Xá với cùng điều kiện nói trên, nếu tại tư gia hoặc tại nơi mà họ bị ngăn trở, họ hiệp ý với các tín hữu hiện diện, đặc biệt trong những lúc lời ĐTC và các GM giáo phận được truyền hình hoặc truyền thanh, họ đọc Kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính dưới bất kỳ hình thức nào, và các kinh khách phù hợp với mục đích của Năm Đức Tin, dâng những đau khổ và khó khăn trong cuộc sống của họ”. (SD 5-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Thứ Năm, 1 tháng 11, 2012

THÁNG 11-CẦU CHO CÁC LINH HỒN

Tháng 11-Cầu cho các linh hồn.doc

LỄ CẦU HỒN (2/11/2012)

Nguồn gốc lễ Cầu hồn và tháng Các linh hồn
Theo Xuanha
Theo sách vở ghi lại, thì thánh Odilo (962- 1048) là viện phụ đan viện Cluny. Đan viện này thời đó nằm trong phần đất của đế quốc Germany.

Ngài là người thánh đức, thường cầu nguyện, hi sinh , và dâng lễ cầu cho các linh hồn đã qua đời.

Truyện kể rằng:

Một hôm, một đan sĩ Dòng ngài đi viếng Đất thánh Giêrusalem. Trên đường trở về Đan viện Cluny. Tàu chở đan sĩ bị bão đánh giạt vào một hòn đảo. Tại đó, đan sĩ gặp một ẩn sĩ và được ẩn sĩ cho biết:

"Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều người bị hành hạ, đánh đập. Tôi thường nghe các tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ Dòng của ngài rằng: ngày nào họ cũng giải thoát một số linh hồn ra khỏi hang lửa đó. Vì thế, xin thầy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng cứ tiếp tục cứu giúp các linh hồn đau khổ. Đó cũng là niềm vui cho các thánh trên Thiên đàng và là sự đau khổ cho quỉ dữ dưới Hỏa ngục".


Sau khi nghe biết sự việc này, cha Odilo đã lập lễ Cầu hồn vào ngày 2 tháng 11 và trước hết cử hành trong đan viện Cluny của ngài vào năm 998 (có sách nói năm 1030). Về sau lễ cầu hồn đã được truyền sang nuớc Pháp, và tới giữa thế kỉ 10, Đức Giáo hoàng Gioan 14 đã lập lễ Cầu hồn trong Giáo hội Rôma.

Từ thời đó, nhiều nơi đã có thói quen cầu nguyện tuần chín ngày cho các linh hồn, họ đi thăm viếng, sửa mồ mả cha ông. Vào buổi chiều lễ Các Thánh, có những người đi từng nhà xin quà cho các linh hồn, họ hát những bài ca cổ truyền cổ động cầu cho các linh hồn mau ra khỏi Luyện ngục.

- Tại nước Hungary, người ta gọi ngày 2/11 là "Ngày người chết". Ngày đó, người ta có thói quen tụ họp các trẻ mồ côi tới gia đình họ rồi cho chúng ăn, cho quần áo, cho quà bánh, đồ chơi.

- Tại miền quê nước Poland, người ta kể: nửa đêm lễ Cầu hồn, người ta thắp sáng nhà thờ giáo xứ, để các linh hồn trong xứ đã qua đời về quanh bàn thờ cầu ơn giải thoát khỏi luyện ngục. Người ta nói là, sau đó trở lại thăm lại nhà mình, thăm nơi mình quen thuộc, làm việc mình đã làm khi còn sống. Và để đón tiếp những linh hồn này, người ta để cửa sổ mở suốt đêm mùng 2.

...........

- Tại Việt nam, nhất là miền Bắc, trước Công đồng Vaticanô 2 (62-65) người ta thường sửa mồ mả cha ông vào dịp Tết Nguyên đán đầu năm Âm lịch, tính theo mặt trăng, còn lễ Cầu hồn, người ta đi viếng các nhà thờ chung quanh suốt ngày lễ Các Thánh để lãnh ân xá chỉ cho các linh hồn đã qua đời. Cảnh người lớn trẻ em tấp nập ra vào rất vui vẻ. Người ta dự lễ và xin lễ rất nhiều để cầu cho Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ sớm về hưởng phước Thiên đàng.

--------------------------

*Thương nhớ người quá cố, nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình là chuyện tự nhiên của con người.

*Ao ước cho người thân mình được "nghỉ yên muôn đời trong nơi mát mẻ hạnh phúc" cũng là tâm lí thông thường.

*Do đó việc cầu cho người thân đã qua đời là việc cần thiết, vừa cho linh hồn người chết được cứu thoát khỏi Luyện ngục, vừa cho người sống được tỏ lòng hiếu thảo đền ơn.

Những điều trên không những hợp lòng người, mà còn hợp giáo lí trong đạo. Giáo lí Công giáo do Đức Thánh cha Gioan Phaolo 2 ban hành năm 1992 có 3 số như sau:

- Số 1030: Cần có Luyện ngục:

"Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn, thì tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng.

- Số 1031: Luyện ngục để thanh tẩy:

"Giáo Hội gọi là luyện ngục là sự thanh luyện sau cùng này của các người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt. Giáo Hội đã trình bày giáo lý của đức tin về Luyện ngục, nhất là tại các Công đồng Florentia (xem DS 1304) và Trentô (xem DS 1820; 1580).


Dựa vào một số bản văn của Thánh Kinh (Chẳng hạn 1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7), Truyền thống của Giáo Hội nói đến một thứ lửa thanh luyện:"Đối với một số những lỗi lầm nhẹ, ta phải tin có một thứ lửa thanh tẩy trước ngày Phán xét, theo như những gì mà Đấng là Chân lý đã dạy khi Ngài nói rằng nếu ai nói lời phạm thánh chống lại Chúa Thánh Thần, thì sẽ không được tha cả đời này lẫn ở đời sau" (Mt 12,31). Theo lời quyết đoán này, chúng ta có thể hiểu rằng một số lỗi lầm có thể được tha ở đời này, nhưng một số lỗi khác thì được tha ở đời sau" (Th. Gregoriô Cả, Dial. 4,39).

- Số 1032: Người sống cứu người chết:
"Giáo huấn này cũng dựa vào cách cầu nguyện cho kẻ chết, như được nói đến trong Thánh Kinh: "Đó là lý do tại sao ông Giuđa Macabê đã truyền phải dâng hy lễ đền tội này cho các người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của mình" (2 Mcb 12,46).

Ngay từ những thời gian đầu, Giáo Hội đã tôn kính việc tưởng niệm các người đã qua đời, và dâng kinh lễ để cầu cho họ, nhất là dâng Thánh lễ( xem DS 856), để họ được thanh tẩy và tiến vào nơi chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Giáo Hội cũng khuyên làm việc bố thí, hưởng các ân xá và thi hành những việc đền tạ để giúp các người đã qua đời:
Chúng ta hãy cứu giúp họ và hãy tưởng nhớ họ. Nếu các con ông Gióp đã được thanh tẩy nhờ lễ hy sinh của cha họ( xem G 1,5), tại sao chúng ta lại có thể hoài nghi rằng những của lễ của chúng ta dâng cầu cho người chết sẽ không mang lại ủi an cho họ? Vậy chúng ta đừng ngần ngại cứu giúp những người đã ra đi, và dâng những kinh nguyện cầu cho họ (Th. Gioan Kim khẩu, Hom. in 1 Cr 41,5).

* Ngày 10 tháng 8 năm 1915, Trong một Tông hiến, Tòa thánh cho các linh mục được dâng 3 lễ vào ngày lễ Cầu hồn: 1 cầu như ý người xin, được lấy bổng lễ, 1 cầu theo ý ĐTC (không bổng) và 1 cầu cho các linh hồn (không bổng). Giáo hội cũng xác định dành trọn tháng 11 dành để cầu cho các linh hồn Luyện ngục.

* Ngày 1 tháng 11 năm 1967, ĐTC Phaolô 6, trong Tông huấn Ân xá đã ban một đại xá với điều kiện thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu theo ý ĐGH) cho những ai "viếng nhà thờ vào Chúa nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ Các Thánh (số 67), và những ai viếng nghĩa địa trong 8 ngày đầu tháng 11 để cầu cho các linh hồn (số 13).

--------------

Tháng cầu hồn ta lo cứu giúp,
Các linh hồn luyện ngục chờ mong,
Thoát ra khỏi ngọn lửa hồng,
Vui về bên Chúa trả công cứu người.

---------------------
Trong mầu nhiệm các thánh thông công, chúng ta cầu cho các linh hồn Luyện ngục, để
khi về Thiên đàng, các Ngài sẽ cầu lại cho ta trước tòa Chúa.

LỄ CÁC THÁNH (1/11/2012)


CÁC THÁNH NAM NỮ "HỌ LÀ AI'?
Lm. Ansgar Phạm Tĩnh, SDD
Có một số người, đặc biệt là những anh chị em Kitô hữu thuộc các giáo phái trong giáo hội Tin Lành (Protestant Church), thường hay thắc mắc: “Các thánh nam nữ, họ là ai?” và “Trong lịch Phụng Vụ của GH Công Giáo, hầu như trong thánh lễ Misa nào cũng có mừng kính thánh này, thánh kia, có ngày có tới 5, 6 thánh, vậy tại sao mà người Công Giáo lại còn có thêm một ngày lễ gọi là lễ Các Thánh và lại mừng kính một cách trọng thể như vậy?” 
Các thánh nam nữ, họ là ai? Kinh Thánh đưa ra cho chúng ta những lời giải thích rất rõ ràng:
            Các thánh là một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ (Kh 7:9),các ngài đang được diện kiến Thánh Nhan Thiên Chúa và đang được cùng với Đức Maria và với các thiên thần hát khen, ngợi ca và tận hưởng vinh phúc trên Thiên Đàng.
Các thánh là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên (Kh 7:14). Các ngài là những người đã từng có những kinh nghiệm của yếu đuối, sa ngã, và tội lỗi … nhưng họ đã ăn năn, quyết tâm hối cải, tin tưởng vào sự tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa, đã đứng lên và trung thành đi theo Chúa cho đến cùng.
            Các thánh là những người đã cố gắng sống và tuân giữ bản HIẾN CHƯƠNG NƯỚC TRỜI mà Chúa Giêsu đã đưa ra trên núi khi xưa (Mt 5:1-12).
Các ngài là những người có tâm hồn nghèo khó, hiền lành, đã từng trải qua những nỗi sầu khổ và đã khát khao nên người công chính: Thánh Anthony Viện Phụ, Benedict, Cecilia, Maria Goretti, Martin De Porret, Monica, Gioan Thánh Giá, Têrêsa Avila…
Các ngài là những người đã biết xót thương người khác, có tâm hồn trong sạch và là những người nỗ lực kiến tạo và xây dựng hoà bình: Thánh Martin De Tour, Damien Cùi, Ignatius, John Vienanay, Dominic Savior, Maria Magareta, Faustina…
Các ngài là những người bị bách hại vì sống công chính, đã bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa, bị sỉ nhục và chịu chết vì danh Chúa Giêsu Kitô: Các thánh Tông Đồ, Cosma, Damiano, các thánh Tử Đạo Việt Nam, Đại Hàn, Trung Hoa, Philippine …
Tại sao Giáo Hội Công Giáo lại có thêm ngày lễ mừng Kính Các Thánh Nam Nữ? Theo thiển ý của tôi, sở dĩ có ngày lễ mừng kính Các Thánh Nam Nữ là bởi vì:
Mẹ Giáo Hội muốn nhắc nhở cho con cái biết rằng có một sự hiệp thông rất mật thiết giữa ba thành phần trong Giáo Hội: Giáo Hội Lữ Hành, Giáo Hội Đền Bù & Giáo Hội Chiến Thắng. Nói cách khác, có một mối liên hệ thiêng liêng hỗ tương giữa những người còn đang sống ở trên dương thế này với những linh hồn đang chịu thanh luyện trong Luyện Tội và với các thánh đang hưởng vinh phúc trên Thiên Đàng (GLTYGHCG # 195 & Lumen Gentium # 49)
Trong danh sách những vị được Giáo Hội phong hiển thánh con số đã lên tới hơn mười ngàn vị, mà mỗi một năm chỉ có 365 ngày , cho nên không thể nào mừng kính tất cả các thánh từng ngày trong suốt năm được. Và còn có rất nhiều các vị thánh tử đạo ở khắp mọi nơi trên thế giới, bên Trung Quốc, Việt Nam, Đại Hàn, Nhật Bản, Hàn Quốc … chưa được Giáo Hội ghi tên vào sổ bộ các Thánh, cho nên mừng tất cả các thánh vào ngày 1/11 là trọn nghĩa trọn tình nhất.
Bạn thân mến, mừng kính lễ Các Thánh Nam Nữ, chúng mình cần phải làm gì để cho ngày lễ này mang lại nhiều ý nghĩa đây? Tôi nghĩ, trước tiên tôi và bạn phải có niềm ao ước mãnh liệt rằng, sau này tôi cũng sẽ được cùng với các thánh nam nữ chung hưởng hạnh phúc trên Thiên Quốc. Và kế đến, tôi xin bạn hãy chú ý đến những vấn đề sau đây:
Thứ nhất là bạn và tôi phải cẩn trọng trong việc cầu nguyện, và trong những việc sùng kính Đức Mẹ và các thánh. Tại sao phải cẩn trọng? Là bởi vì đã có nhiều người hiểu lầm là người Công Giáo tôn thờ Đức Mẹ và các thánh
Khi cầu nguyện, bạn và tôi phải nhớ là chúng mình phải cầu nguyện VỚI CHÚA, chứ không phải là cầu với Đức Mẹ hay với các thánh. Bất cứ khi nào cầu nguyện với Chúa, dù là nơi công cộng hay riêng tư, thì bạn hãy mở đầu, hoặc là kết thúc lời cầu nguyện của bạn, đại khái như thế này: “… nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, (hoặc của thánh quan thầy, Giuse, Đaminh, Phanxicô ….) xin Chúa ban cho chúng con ơn bình an, khoẻ mạnh, thánh thiện, khiêm nhường …”
Trên bàn thờ của gia đình, bạn hãy đặt tượng chịu nạn, hoặc ảnh của Chúa Giêsu ở trên nơi cao nhất, rồi ở dưới mới là ảnh của Đức Mẹ hay của các thánh. Đức Mẹ và các thánh không có buồn khi được xếp bên dưới ảnh tượng của Chúa Giêsu đâu! Đừng có lo!
Thứ hai, hãy mua cho con cái và cho chính bạn những cuốn phim DVD, hoặc những cuốn truyện nói cuộc đời của các thánh, nhất là vị thánh quan thầy của mình, và những vị quan thầy của con cái. Qua những cuốn phim, qua những cuốn sách kể về cuộc đời các ngài, bạn và tôi mới biết được những khó khăn, thử thách, cám dỗ và gian khổ mà các ngài đã phải chịu đựng và đã phải chiến đấu để vượt qua… nhờ đó bản thân mình, và con cái mình mới cố gắng noi gương, học hỏi đức hy sinh, chịu đựng, và mới cảm thấy gần gũi để xin các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng mình. 
Thứ ba, là vấn đề chọn tên thánh cho con cháu. Người Công Giáo có thói quen chọn một vị thánh quan thầy trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội & bí tích Thêm Sức. Vì thế cho nên trước khi chọn tên một vị thánh cho con cháu, bạn hãy chịu khó đọc và tìm hiểu cho kỹ về tiểu sử, về cuộc đời cũng như về sự nghiệp của vị thánh ấy. Và bạn phải nhớ cho thật kỹ! Marilyn Monroe, Jenifer Lopez, Michael Jackson, Tom Cruise, Catherine Zeta-Jones … không ai trong số họ là THÁNH cả! Đừng có lấy những tên này để đặt cho con cho cháu, sau này khi lớn lên, chúng nó bắt chước lối sống và kiểu cách của những nhân vật này thì … phiền lắm đấy!
Ước chi mỗi người trong chúng ta luôn luôn sống như các thánh nam nữ, biết chỗi dậy khi bị sa ngã và biết quyết tâm, cậy dựa vào ơn của Chúa cũng như vào sự trợ lực của các bí tích, đặc biệt là bí tích Giải Tội & bí tích Thánh Thể, để nhờ vậy chúng mình mới có đủ sức để chống trả lại những thế lực và những cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Nếu tôi và bạn noi gương các thánh nam nữ, can đảm đứng lên sau khi sa ngã, cậy trông và tin tưởng vào lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa, và trung thành với Ngài cho đến cùng, thì chắc chắn là trong ngày sau hết, chúng mình sẽ được tận hưởng thánh nhan của Thiên Chúa, và sẽ được cùng với các ngài chung hưởng phúc, vui vẻ đời đời chẳng cùng. Amen!